Ngôn ngữ

Story | 24 Tháng 5, 2022

Mở rộng nguồn tài chính quốc tế cho quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo của Việt Nam

Đây là bài thứ 3 trong loạt 6 bài viết trình bày về cách thức mà Việt Nam có thể thực hiện các cam kết về năng lượng tại hội nghị COP26 nhằm giảm thiểu tác động môi trường trong khi vẫn đảm bảo lộ trình cho các mục tiêu phát triển bền vững và rộng lớn hơn. Các bài viết khác nằm trong loạt bài này nói về các chủ đề liên quan đến vai trò của năng lượng gió trong cơ cấu điện năng của Việt Nam, tích hợp năng lượng tái tạo vào lưới điện và phương cách Việt Nam có thể bảo vệ năng suất tự nhiên của Đồng bằng sông Cửu Long bằng cách đầu tư vào các giải pháp thay thế cho đập Sekong A ở CHDCND Lào.

content hero image

Photo: Intel Solar Installation in Viet Nam © Intel Free Press and Flicker.com

Để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, Việt Nam cần phải gia tăng mạnh mẽ công suất năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời và gió. Điều này sẽ đòi hỏi nguồn đầu tư đáng kể: Trong Kế hoạch phát triển Điện 8 của Việt Nam gần đây đã ước tính nhu cầu tài chính hàng năm là hơn 11 tỷ đô la, phần lớn trong số đó sẽ được dành cho năng lượng tái tạo. Từ trước đến nay, hầu hết tất cả các khoản đầu tư vào năng lượng tái tạo ở Việt Nam đều đến từ các nguồn trong nước và trong khu vực. Tuy nhiên, để duy trì mức độ mở rộng nhanh chóng cho năng lượng tái tạo phụ thuộc vào khả năng của Việt Nam trong việc mở rộng đầu tư quốc tế.

Việt Nam đã đạt được thành tựu đầy ấn tượng trong việc thu hút đầu tư từ khối tư nhân ở trong nước để nhanh chóng mở rộng quy mô năng lượng mặt trời từ mức gần như không có gì vào năm 2017 lên đến hơn 16.000 MW vào năm 2022, vượt xa các mục tiêu của Chính phủ. Mặc dù vẫn chưa rõ chính xác trong tương lai sẽ có bao nhiêu năng lượng mặt trời và gió được đưa vào trong Kế hoạch phát triển điện 8, nhưng có thế thấy rõ là hệ thống năng lượng này được phát triển nhằm gia tăng quy mô năng lượng.

Xem các mục tiêu năng lượng tái tạo ở Việt Nam tại đây: https://datawrapper.dwcdn.net/8fHoA/2/

Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đầu tư phát triển một lượng lớn năng lượng tái tạo để đạt được mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Hầu hết các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam đều do các công ty trong nước phát triển. Theo dữ liệu từ Mekong Infrastructure Tracker (tạm dịch: Cơ quan Theo dõi Cơ sở hạ tầng Mekong) cho thấy 58% các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam được phát triển hoàn toàn bởi các công ty Việt Nam. 27% dự án khác được phát triển dựa trên hợp tác giữa một công ty Việt Nam với một đối tác quốc tế. Chỉ có 12% (tương ứng 13 dự án) dự án được phát triển hoàn toàn do công ty nước ngoài.

Cũng theo thống kê của Mekong Infrastructure Tracker thì hầu hết các công ty nước ngoài tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo tại Việt Nam đến từ các quốc gia ở châu Á đặc biệt là Thái Lan, Nhật Bản và Philippines. Các công ty của Trung Quốc hầu như không phải là đối tác phát triển hoặc nhà tài trợ dự án tại Việt Nam mà liên quan nhiều hơn đến các nước láng giềng như Campuchia và CHDCND Lào.

Thông tin về các công ty nước ngoài tham gia vào các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam xem tại đây: https://datawrapper.dwcdn.net/ssMb9/1/

Vấn đề ở chỗ các ngân hàng và các công ty của Việt Nam không có đủ năng lực tài chính để đầu tư, đáp ứng nhu cầu năng lượng trong tương lai. Việt Nam chỉ có thể đạt được giảm phát thải ròng bằng “0” nếu huy động được nguồn tài trợ quốc tế. Điều này đòi hỏi cần có những cải cách trong chính sách đầu tư. Để nhận được sự hỗ trợ quốc tế, Việt Nam cần giải quyết những trở ngại về quy định sau:

Các điều khoản của Hợp đồng mua bán điện (PPA). Kể từ năm 2017, Việt Nam đã đưa ra biểu giá bán điện (FIT) cho các dự án năng lượng mặt trời nhưng qui định Thỏa thuận mua bán điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đối với các dự án năng lượng mặt trời mang lại quá nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư dự án. Theo đó, EVN có thể cắt giảm việc mua điện vào bất kỳ thời điểm nào trong một khoảng thời gian không xác định. Việc không có sự bảo đảm mua điện là không phù hợp với thông lệ toàn cầu và làm cho nhiều nhà đầu tư quốc tế e ngại do rủi ro. Trong khi các công ty Việt Nam có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách thu hút các bên liên quan chính trong hệ thống chính trị theo những phương cách mà các công ty quốc tế không thể làm được.

Sự không đảm bảo về giá. Biểu giá bán điện 2017 của Việt Nam đã cung cấp một mức giá đảm bảo cho các dự án tại thời điểm bắt đầu vận hành và trong một khung thời gian cụ thể. Nhưng có 2 vấn đề: Biểu giá bán điện được điều chỉnh nhiều lần, điều này dẫn đến việc các nhà đầu tư thường có quá ít thời gian để đáp ứng đủ điều kiện nêu trong biểu giá mới, và đôi khi có những khoảng thời gian dài mà không có biểu giá chính thức. Cho dù việc sửa đổi giá định kỳ là điều dễ hiểu do thị trường năng lượng mặt trời của Việt Nam phát triển nhanh, nhưng sự không đảm bảo về việc biểu giá nào sẽ được áp dụng khi dự án bắt đầu vận hành là một rủi ro lớn.

Thủ tục cấp phép rườm rà. Đăng ký một dự án mới thường liên quan đến nhiều cơ quan, ban ngành từ giai đoạn phê duyệt dự án ban đầu đến lúc tích hợp vào quy hoạch cấp tỉnh, cho đến cấp phép đất đai, v.v. Quá trình này có thể gây khó định hướng đối với các nhà đầu tư quốc tế nếu không có các kết nối địa phương.

Hợp đồng mua bán trực tiếp giữa người bán và người mua khối tư nhân chậm được thực hiện. Vào năm 2020, Chính phủ đã làm rõ các chính sách về năng lượng mặt trời lắp đặt trên mái nhà, cho phép các công ty đầu tư vào năng lượng mặt trời để cắt giảm chi phí và đáp ứng các mục tiêu phát thải của doanh nghiệp. Đây là một bước quan trọng đầu tiên. Nhưng chỉ riêng năng lượng mặt trời trên mái nhà là chưa đủ để đáp ứng các mục tiêu giảm carbon dài hạn, và nhiều công ty muốn mua năng lượng tái tạo trực tiếp từ các nhà sản xuất bên ngoài. Mặc dù Bộ Công Thương đã công bố kế hoạch thí điểm Đề án Hợp đồng mua bán điện trực tiếp vào năm 2019, nhưng việc thực hiện vẫn còn chậm.

Việt Nam đã thực hiện các bước để giải quyết những vấn đề này: vào tháng 1 năm 2022, Quốc hội đã thông qua Luật số 3 cho phép các công ty tư nhân có quyền đầu tư và vận hành đường dây tải điện. Điều này sẽ giảm bớt một số điểm thiếu đảm bảo và rủi ro liên quan đến việc kết nối năng lượng tái tạo với mạng lưới truyền tải. Bộ Công Thương đã công bố Đề án thí điểm kéo dài 2 năm về Hợp đồng mua bán điện trực tiếp và đề án này bắt đầu từ năm 2022.

Tuy nhiên sẽ còn nhiều việc cần phải thực hiện. Ưu tiên hàng đầu là Chính phủ cần ban hành Hợp đồng mua bán điện sửa đổi để hấp dẫn các khoản đầu tư quốc tế. Cũng cần phải đảm bảo rằng các chính sách về cấp phép và định giá trong tương lai phải minh bạch, rõ ràng và khoảng thời gian dài hơi hơn để tránh sự không chắc chắn.

Khi nhu cầu điện tiếp tục tăng, các Hợp đồng mua bán điện có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu carbon trong lĩnh vực công nghiệp của Việt Nam. Ngành công nghiệp là nguồn phát thải khí nhà kính lớn và nhiều công ty quốc tế muốn “xanh hóa” chuỗi cung ứng của họ và đáp ứng các mục tiêu phát thải carbon, và thường có nhiều tham vọng hơn so với mục tiêu chính thức của Việt Nam. Các Hợp đồng mua bán điện trực tiếp sẽ khuyến khích các công ty này đầu tư vào sản xuất năng lượng tái tạo của riêng họ và đồng thời giảm nhu cầu trên lưới điện quốc gia.

Đây là thời điểm quan trọng để Việt Nam áp dụng các quy định nhằm thu hút nguồn tài chính quốc tế lớn hơn nhiều. Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Chính quyền Tổng thống Joe Biden là ưu tiên năng lượng sạch, nhưng Tập đoàn Phát triển Tài chính Hoa Kỳ vẫn chưa xác định được một dự án năng lượng tái tạo hàng đầu ở Đông Nam Á. Sau COP26, Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản đã công bố sáng kiến ​​khử carbon cho các nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0”. Ngay cả Trung Quốc, trước đây là nhà tài trợ lớn cho các nhà máy điện than, vào tháng 3 năm 2022 đã ban hành hướng dẫn về việc xanh hóa Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường bằng cách hỗ trợ các dự án carbon thấp bao gồm năng lượng tái tạo và lưu trữ năng lượng. Nếu thực hiện đúng các quy định của mình, Việt Nam có thể nhận được nguồn vốn đáng kể để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo của mình.


Đây là bài viết thứ ba trong loạt bài do IUCN và Trung tâm Stimson sản xuất thuộc khuôn khổ dự án BRIDGE (Nâng cao năng lực Quản trị và Đối thoại các Dòng sông) do Cơ quan Hợp tác Phát triền Thụy sỹ tài trợ. Đây là dự án toàn cầu về ngoại giao nguồn nước do IUCN điều phối thực hiện tại 15 lưu vực sông xuyên biên giới bao gồm sông Mê-Công.